LUẬT ĐÒI NỢ CỦA VIỆT NAM
Đòi nợ là hoạt động phát sinh thường xuyên và là một phần không thể thiếu trong đời sống thường ngày của người dân cũng như trong nhịp sống thương mại của các thương nhân. Bởi vậy mà việc Luật Đầu tư 2020 đưa dịch vụ đòi nợ vào danh sách ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh tại Việt Nam không đồng nghĩa với việc hoạt động đòi nợ bị nhà nước cấm hoàn toàn hay khung pháp lý về đòi nợ tại Việt Nam từ trước đến nay bị xoá bỏ. Luật đòi nợ của Việt Nam không phải là một văn bản pháp luật cụ thể mà là tổng hợp các quy định pháp luật của nhiều nguồn luật đa dạng, điều chỉnh hoạt động thu hồi khoản tiền nợ của chủ nợ với con nợ phát sinh theo thoả thuận hợp pháp giữa các bên. Thông qua các quy định pháp luật này, chủ nợ có thể thực hiện quyền đòi nợ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Bài viết dưới đây sẽ đi sâu vào phân tích luật đòi nợ của Việt Nam giúp bạn đọc có cái nhìn rõ ràng và toàn diện về những quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề này.
Nguồn luật điều chỉnh hoạt động đòi nợ tại Việt Nam
Trước đây, pháp luật Việt Nam công nhận kinh doanh dịch vụ đòi nợ là một ngành nghề kinh doanh hợp pháp, được quy định riêng về nội dung hoạt động và điều kiện kinh doanh trong Nghị định 104/2007/NĐ-CP[1]. Hiện nay, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư 2020, cấm hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ bằng cách liệt kê hoạt động này vào danh sách các ngành, nghề bị cấm đầu tư kinh doanh.
Tuy nhiên, hoạt động đòi nợ thực chất là hành vi dân sự hoặc thương mại, phát sinh khi một hoặc nhiều bên không tuân thủ đầy đủ nghĩa vụ của mình theo nội dung thỏa thuận trong các hợp đồng vay, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các loại hợp đồng khác được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự hay pháp luật chuyên ngành như luật thương mại, đầu tư, kinh doanh bất động sản, v.v. Vì vậy, chủ nợ có thể dựa vào các điều khoản đã giao kết trong hợp đồng và các quyền, nghĩa vụ của các bên được quy định tại pháp luật dân sự, pháp luật thương mại và các luật chuyên ngành khác để thực hiện việc đòi nợ.
Bài viết liên quan: KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA VIỆC THU HỒI NỢ Ở VIỆT NAM
Bộ luật Dân sự
Bộ luật Dân sự quy định bên có nghĩa vụ trong quan hệ dân sự phải thực hiện việc thanh toán tiền một cách đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và đúng theo phương thức mà các bên đã thỏa thuận.[2] Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự cũng xác định nghĩa vụ thanh toán đối với từng loại hợp đồng, trong đó đặc biệt chi tiết hoá nghĩa vụ thanh toán đối với hợp đồng vay, trong cả hai trường hợp vay không có lãi và vay có lãi. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất do các bên thoả thuận hai bên nhưng không vượt qua mức lãi suất luật định.[3] Trong trường hợp các bên không thỏa thuận rõ ràng về mức lãi suất chậm trả trong hợp đồng thì các bên có thể áp dụng lãi suất chậm trả theo quy định tại Bộ luật Dân sự[4].
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự ghi nhận quyền đòi nợ là quyền tài sản, có thể thực hiện mua bán được. Theo quy định tại Điều 450.2 Bộ luật Dân sự, trường hợp quyền tài sản là quyền đòi nợ và bên bán cam kết bảo đảm khả năng thanh toán của người mắc nợ thì bên bán phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán, nếu khi đến hạn mà người mắc nợ không trả.
Luật Thương mại
Luật Thương mại ghi nhận nghĩa vụ thanh toán của các bên trong các hợp đồng thương mại như hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng cung ứng dịch vụ, các loại hợp đồng xúc tiến thương mại, trung gian thương mại và các hoạt động thương mại khác. Bên cạnh đó, Luật Thương mại cũng điều chỉnh các chế tài thương mại mà các bên có thể thoả thuận trong hợp đồng để tăng trách nhiệm của bên có nghĩa vụ thanh toán, tránh tình trạng bên có nghĩa vụ không thanh toán hoặc chậm thanh toán, ví dụ như phạt vi phạm hợp đồng, yêu cầu bồi thường thiệt hại, tạm ngưng thực hiện hợp đồng hay đình chỉ thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, Luật Thương mại còn trao cho chủ nợ quyền yêu cầu con nợ thanh toán tiền lãi do chậm thanh toán với mức tính lãi suất dựa theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán.
Luật Thương mại cũng điều chỉnh những hình thức giải quyết cho chủ nợ và con nợ trong trường hợp xuất hiện các tranh chấp liên quan đến khoản nợ phát sinh từ hoạt động thương mại, bao gồm thương lượng, hoà giải, giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.[5]
Bộ luật Tố tụng Dân sự và Luật Trọng tài Thương mại
Bộ luật Tố tụng Dân sự (“BLTTDS”) và Luật Trọng tài Thương mại (“LTTTM”) điều chỉnh thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà án và Trọng tài giúp chủ nợ lựa chọn nơi phù hợp để nộp đơn khởi kiện đòi nợ. BLTTDS và LTTM cũng đưa ra các nguyên tắc tố tụng mà các chủ thể phải nghiêm túc tuân thủ nếu lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp này. Đồng thời, các luật này cũng quy định chi tiết từng trình tự và cách thức xử sự để các chủ thể có thể thực hiện thủ tục tố tụng tại Toà án và Trọng tài, từ khâu chuẩn bị hồ sơ khởi kiện đến khâu tham dự phiên xét xử và nghe phán quyết, quyết định và sau đó là quá trình tố tụng ở các cấp cao hơn nếu các bên có căn cứ cho rằng phán quyết, quyết định của Toà án hoặc Trọng tài là chưa phù hợp theo quy định pháp luật.
Luật Thi hành án dân sự
Luật Thi hành án dân sự (“LTHADS”) trao cho chủ nợ quyền yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định và tổ chức thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, buộc con nợ phải trả nợ theo bản án, quyết định đã ban hành. LTHADS quy định các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế mà cơ quan thi hành án có thể áp dụng để thực thi quyền đòi nợ cho chủ nợ. Các biện pháp này bao gồm nhưng không giới hạn ở việc phong toả tài khoản, tài sản; khấu trừ tiền trong tài khoản, trừ vào thu nhập, kê biên, xử lý tài sản, v.v. LTHADS cũng quy định rõ trình tự, thủ tục để các chủ thể thực hiện hoạt động thi hành án này.
Bộ luật Hình sự và Nghị định xử phạt vi phạm hành chính
Pháp luật hiện hành có các quy định cho phép chủ nợ đòi nợ hợp pháp thông qua thương lượng, hoà giải hay tố tụng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, vì thiếu hiểu biết pháp luật nên nhiều chủ nợ đã lựa chọn cách thức đòi nợ trái phép như sử dụng bạo lực, đe doạ, cưỡng bức tinh thần con nợ, dẫn đến việc chính bản thân họ trở thành đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.
Bộ luật Hình sự quy định về các hình phạt đối với tội phạm gây ra do hành vi đòi nợ trái pháp luật, đó có thể tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ người khác, tội làm nhục người khác, tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, tội xâm phạm chỗ ở của người khác, tội cưỡng đoạt tài sản, tội gây rối trật tự công cộng hay các tội phạm có liên quan khác.
Đối với các hành vi đòi nợ vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì chủ thể thực hiện hành vi vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính. Các nghị định xử phạt vi phạm hành chính đặt ra các hình thức xử phạt, chủ yếu là phạt tiền đối với những hành vi đòi nợ trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác và trật tự xã hội. Các mức phạt tiền không chỉ áp dụng với chủ nợ vi phạm là cá nhân mà còn với các tổ chức, trong đó bao gồm tổ chức tín dụng như ngân hàng hay các công ty tài chính.
Từ các phân tích ở trên có thể thấy, khi áp dụng các quy định tại Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại hoặc các luật chuyên ngành khác mà chủ nợ vẫn chưa thể đòi được nợ, chủ nợ có quyền nộp đơn khởi kiện lên Trọng tài thương mại hoặc Toà án có thẩm quyền để các cơ quan này ra quyết định buộc con nợ thanh toán khoản nợ. Trong trường hợp con nợ nhất quyết không thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của tòa án thì chủ nợ có thể yêu cầu cơ quan thi hành án hỗ trợ thực hiệc việc đòi nợ. Trong trường hợp, chủ nợ có các hành vi vi phạm pháp luật khi đòi nợ thì chủ nợ có thể phải chịu các trách nhiệm hành chính, hình sự tương ứng. Bởi vậy, các văn bản pháp luật như Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Trọng tài Thương mại, Luật Thi hành án dân sự, Bộ luật Hình sự, Nghị định xử phạt vi phạm hành chính cũng chính là nguồn luật điều chỉnh hoạt động đòi nợ tại Việt Nam.
Bài viết liên quan: Giải Quyết Tranh Chấp Thu Hồi Nợ
Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ tại Việt Nam
Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ tại Việt Nam được điều chỉnh bởi các điều khoản trong hợp đồng và quy định pháp luật tương ứng. Trong hoạt động kinh doanh thương mại, các thương nhân thường ghi nhận chi tiết, rõ ràng các nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng. Ngoài các điều khoản cơ bản như số tiền thanh toán, thời hạn và hình thức thanh toán, họ còn thỏa thuận các điều khoản liên quan đến phạt vi phạm, tiền lãi chậm trả và các chế tài xử phạt khác. Trong trường hợp này, các bên đều ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình liên quan đến việc thanh toán trong hợp đồng. Nếu con nợ không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình, hành vi này được coi là cố ý vi phạm thỏa thuận và chủ nợ có thể áp dụng các chế tài đã được ghi nhận trong hợp đồng bao gồm cả việc khởi kiện con nợ tại trọng tài thương mại hoặc tòa án có thẩm quyền để bảo vệ quyền lợi của mình.
Tuy nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, đôi khi các bên tham gia giao dịch có thể thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc quá tin tưởng lẫn nhau, dẫn đến nhiều giao dịch từ nhỏ đến lớn không được thỏa thuận rõ ràng bằng văn bản. Hoặc, nếu có hợp đồng, các điều khoản về nghĩa vụ thanh toán thường thiếu sự rõ ràng. Trong trường hợp này, quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ sẽ được xác định và điều chỉnh chủ yếu bởi các quy định pháp luật.
Nhìn chung, chủ nợ có quyền đòi nợ và con nợ có nghĩa vụ trả nợ. Khoản nợ bao gồm nợ gốc và tiền lãi như đã thoả thuận hoặc theo quy định pháp luật. Chủ nợ có quyền đòi nợ bằng nhiều phương thức như gửi thư yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán, thương lượng, hoà giải hay khởi kiện con nợ ra cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu cơ quan này ra quyết định buộc con nợ trả nợ. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, chủ nợ không được phép sử dụng các hình thức đòi nợ trái pháp luật, xâm phạm đến sức khoẻ, tinh thần của con nợ cũng như an ninh, trật tự xã hội.
Nói tóm lại, pháp luật về đòi nợ của Việt Nam hiện hành là tổng hợp các quy định pháp luật nằm trong nhiều văn bản khác nhau, thuộc nhiều ngành luật khác nhau, điều chỉnh đa dạng khía cạnh của hoạt động này. Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ đã được ghi nhận rõ trong các quy định pháp luật và thường được chi tiết hoá trong các điều khoản hợp đồng thương mại. Tuy nhiên, trong các bối cảnh hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ mới bị cấm, các hoạt động khác liên quan đến đòi nợ chưa được định hình rõ ràng dưới góc độ pháp lý, ý thức pháp luật của người dân về vấn đề này còn chưa cao, mỗi chúng ta cần phải hết sức thận trọng đối với khoản tiền cho vay của mình, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân luôn được bảo vệ đúng mực.
Trên đây là nội dung khái quát liên quan đến Luật đòi nợ của Việt Nam mà Phước và Các Cộng Sự chia sẻ đến bạn đọc. Nếu Quý khách hàng gặp bất kỳ khó khăn nào liên quan đến lĩnh vực pháp lý, vui lòng liên hệ chúng tôi. Phước và Các Cộng Sự là một công ty luật được thành lập tại Việt Nam và hiện có gần 100 thành viên đang làm việc tại ba văn phòng Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng. Phước và Các Cộng Sự cũng được đánh giá là một trong những công ty luật có đội ngũ nhân viên chuyên sâu trong lĩnh vực pháp lý hàng đầu tại Việt Nam mà có các lĩnh vực hành nghề được đánh giá đứng đầu trên thị trường pháp lý như Lao động và Việc làm, Thuế, Mua bán và Sáp nhập, Tranh tụng. Chúng tôi tự tin là một trong những Công ty Luật cung cấp dịch vụ pháp lý tốt nhất đến Quý khách hàng.
[1] Nghị định này đã hết hiệu lực từ ngày 01/01/2021
[2] Điều 280.1 Bộ luật Dân sự 2015
[3] Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015
[4] Điều 357.2 và Điều 468.2 Bộ luật Dân sự 2015
[5] Điều 317 Luật Thương mại 2005